Đất nước chia cắt
Sau trận Điện Biên Phủ, các bên tham chiến đã họp tại Genève năm 1954 để tìm kiếm phương cách giải quyết chiến tranh. Kết quả Hiệp định Genève được ký kết với nội dung là đình chiến và tạm thời phân đôi Việt Nam thành hai vùng tập trung quân sự có ranh giới tại vĩ tuyến 17. Miền Bắc là nơi tập kết của quân đội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, lãnh đạo bởi Hồ Chí Minh. Miền Nam là nơi tập kết quân của Liên hiệp Pháp và Quốc gia Việt Nam. Theo Tuyên bố cuối cùng của Hiệp định, sau 2 năm, khi Pháp rút quân xong thì cả 2 miền sẽ tổ chức tuyển cử để thống nhất đất nước. Dân chúng có quyền lựa chọn cư trú tại miền Bắc hoặc miền Nam. Khoảng 1 triệu người, đa số theo Công giáo và ở miền Bắc đã di cư vào Nam.
Sông Bến Hải, ranh giới chia cắt hai miền Việt Nam (1954-1975)
Chính quyền VNDCCH xem Hiệp định Genève là một thắng lợi quan trọng vì Hiệp định này quy định một cuộc tổng tuyển cử để thành lập một quốc gia thống nhất. Họ tin rằng mình sẽ thắng cử vì uy tín rộng khắp của Hồ Chí Minh lúc đó. Tuy nhiên cuộc tuyển cử đã không bao giờ diễn ra. Pháp rút quân, tổng thống Mỹ Eisenhower được báo cáo của CIA cho biết khoảng 80% người Việt Nam sẽ bầu cho Hồ Chí Minh nếu mở cuộc tổng tuyển cử[20] và hậu thuẫn cho Ngô Đình Diệm thành lập một chính thể riêng biệt ở phía Nam vỹ tuyến 17, không thực hiện tổng tuyển cử thống nhất Việt Nam[21]. Theo Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đây là hành động phá hoại Hiệp định Genève.[22][23]
Ở miền Bắc, chính quyền Hồ Chí Minh kêu gọi những giá trị mang tính cộng đồng, hướng lên xã hội chủ nghĩa, bao gồm nông nghiệp tập thể. Đa số dân chúng đã ủng hộ hết mình cho chính quyền Hồ Chí Minh.[cần dẫn nguồn] Tuy nhiên, một số sai lầm đã diễn ra, như cuộc cải cách ruộng đất trong thập niên 1950 đã đưa hàng ngàn người thuộc diện địa chủ-phú nông ra đấu tố, cầm tù hoặc xử tử[24] đã tạo ra sự xáo trộn đời sống xã hội miền Bắc trong giai đoạn đầu. Mặt khác trong cuộc dẹp trừ phong trào Nhân văn Giai phẩm[25] nhiều nhà văn, nhà báo đã bị đưa đi cải tạo, kiểm điểm hoặc cho thôi việc và không được phép tiếp tục xuất bản tác phẩm vì viết bài không đúng ý nhà cầm quyền.
Năm 1955, Ngô Đình Diệm thắng trong cuộc Cuộc trưng cầu dân ý miền Nam Việt Nam, 1955, cho phép ông lên làm Quốc trưởng của Quốc gia Việt Nam và sau này trở thành Tổng thống nền Đệ nhất Cộng hòa của Việt Nam Cộng hòa. Bảo Đại phải lưu vong sang Pháp. Mỹ bắt đầu giúp chính quyền Ngô Đình Diệm xây dựng một nền kinh tế thị trường[26], cũng như củng cố quân đội để giữ vững chính thể. Vào năm 1959, số người Mỹ tại miền Nam Việt Nam chỉ vào khoảng vài trăm người, dưới hình thức là các "cố vấn" cho chính quyền Ngô Đình Diệm. Tuy nhiên những xáo trộn chính trị vào cuối thập niên 1950 tạo nên sự bất ổn lớn trong xã hội miền Nam. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa bắt đầu thực thi những chính sách "Tố cộng, Diệt cộng", nhiều cuộc thảm sát xảy ra như Vĩnh Trinh, Hướng Điền (Quảng Trị), ở nhà tù Phú Lợi (tàn sát hàng ngìn tù nhân tình nghi là người cộng sản hoặc thân cộng bằng cách bỏ độc vào cơm ăn, nước uống). Các cuộc biểu tình của Phật giáo vốn chiếm số đông trong các tầng lớp dân chúng cũng bị đàn áp, gây mâu thuẫn tôn giáo sâu sắc.
Chiến tranh Việt Nam
Từ năm 1959, chính quyền Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hậu thuẫn cho tổ chức Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam. Đầu thập niên 1960, lực lượng vũ trang của Mặt trận này là Quân Giải Phóng Miền Nam đã tấn công rộng lớn ở nông thôn miền nam, và mở nhiều cuộc đánh bom ở Sài Gòn. Hoa Kỳ tăng cường viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa và gửi 17.500 "cố vấn" đến Việt Nam. Tuy nhiên những mâu thuẫn giữa chính quyền Ngô Đình Diệm với phật giáo Việt Nam cùng với việc chống Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam không đạt mục tiêu, Hoa Kỳ quyết định thay đổi chính quyền Ngô Đình Diệm bằng cách ủng hộ lực lượng quân đội. Tướng lĩnh Quân lực Việt Nam Cộng hòa đảo chính và ám sát Ngô Đình Diệm ngày 1 tháng 11 năm 1963, chấm dứt nền Đệ nhất Cộng hòa và thành lập nền Đệ nhị Cộng hòa. Sau sự kiện này Hoa Kỳ tuyên bố sẽ tiếp tục hỗ trợ quân sự và kinh tế cho Việt Nam Cộng hòa.
Trên chiến trường, Quân lực Việt Nam Cộng hòa liên tiếp gặp thất bại trong chiến lược chiến tranh đặc biệt. Để cứu vãn tình thế, sau Sự kiện Vịnh Bắc Bộ vào tháng 4 năm 1964, tổng thống Mỹ Johnson có cớ ra Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, theo đó gửi quân đội Mỹ đến Việt Nam trực tiếp tham chiến. Bắt đầu từ tháng 3 năm 1965 lần lượt các đoàn quân được chuyển tới chiến trường Việt Nam cùng với khoảng 20.000 "cố vấn" đã có từ trước, số lượng quân đội đội Mỹ lên tới khoảng 540.000 người vào thời điểm cao nhất. Chiến tranh bắt đầu bùng nổ năm 1964 ở khu vực Nam Việt Nam, các vùng biên giới với Campuchia và Lào, và các trận không kích của Mỹ vào miền Bắc Việt Nam. Một bên chiến cuộc là Việt Nam Cộng hòa, Hoa Kỳ và các đồng minh Hàn Quốc, Thái Lan, Úc, New Zealand, Philippines tham chiến trực tiếp. Một bên là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tham chiến, còn Liên Xô và Trung Quốc chỉ cung cấp viện trợ quân sự và lực lượng cố vấn.
Sau giai đoạn đảo chính liên tiếp, năm 1967, Nguyễn Văn Thiệu lên làm Tổng thống nền Đệ nhị Cộng hòa của Việt Nam Cộng hòa. Ở miền Bắc, Lê Duẩn là lãnh đạo của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời vào năm 1969.
Đầu năm 1968, quân đội Nhân dân Việt Nam mở cuộc tổng tấn công chiến dịch Tết Mậu Thân vào hầu hết các thành phố chính ở miền Nam Việt Nam, tuy họ thất bại về mặt chiến thuật nhưng đã làm cho Chính phủ và dân chúng Mỹ mất lòng tin vào khả năng chiến thắng của quân đội Mỹ ở Việt Nam. Tới tháng 11 năm 1968, Johnson tuyên bố dừng hoàn toàn "tất cả cuộc không kích, pháo kích và hải chiến với Bắc Việt Nam" và đồng ý ngồi vào đàm phán. Tuy nhiên một năm sau tổng thống kế nhiệm Richard Nixon thông báo Mỹ quay trở lại, Nixon và cố vấn Henry Kissinger cho ra đời chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh". Vào tháng 6 năm 1969, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam tuyên bố thành lập chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam. Cùng với chiến sự ở chiến trường, cả hai bên đều tìm kiếm giải pháp chấm dứt chiến tranh thông qua các cuộc hội đàm ở Paris. Mãi đến tháng 1 năm 1973, Hiệp định Hòa bình Paris mới được ký giữa Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Cộng hòa miền Nam Việt Nam sau sự thất bại nặng nề của Mỹ trong các cuộc không kích vào Hà Nội, Hải Phòng và các thành phố khác ở miền Bắc Việt Nam do không lực Hoa kỳ tiến hành cuối năm 1972.
Tháng 1 năm 1974, Trung Quốc đã tấn công vào quần đảo Hoàng Sa lúc đó đang do chính quyền Việt Nam Cộng hòa kiểm soát và chiếm đóng hoàn toàn quần đảo này
Sau hiệp định Paris 1973, quân đội Mỹ rút hoàn toàn khỏi Việt Nam - điều khoản đầu tiên của hiệp định công nhận sự "độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ" của Việt Nam. Các điều khoản khác là đình chiến và giữ lãnh thổ của mỗi bên trước khi đình chiến, tổng tuyển cử để xác định chính quyền tương lai ở miền Nam. Hiệp định nói rõ Hoa Kỳ phải triệt thoái quân hoàn toàn trong vòng 60 ngày. Mặc dù đã có hiệp định nhưng Chiến tranh Việt Nam vẫn tiếp diễn, quân đội hai bên tại Nam Việt Nam vẫn tiếp tục vi phạm điều khoản đình chiến trong hiệp định Paris. Nhưng với sự rút quân của Hoa Kỳ cùng với quốc hội Hoa Kỳ giảm viện trợ cho Việt Nam Cộng hòa, đến giữa tháng 3 năm 1975, quân đội Nhân dân Việt Nam mở cuộc tấn công ở Tây Nguyên khởi đầu những chiến dịch nối tiếp nhau. Tây Nguyên rồi Huế, Đà Nẵng lần lượt thất thủ. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, quân đội Nhân dân Việt Nam chiếm được Sài Gòn, chính quyền của tổng thống Dương Văn Minh của Việt Nam Cộng hòa tuyên bố đầu hàng.
|